Chuyển đến nội dung chính

Hướng dẫn cách ứng dụng 3 tầng giá trị của sản phẩm vào content Marketing

  3 TẦNG GIÁ TRỊ CỦA SẢN PHẨM VÀ CÁCH ỨNG DỤNG CHÚNG VÀO CONTENT MARKETING! Trước khi viết một bài content, nhất là cho một sản phẩm cụ thể, mình thường không bắt đầu bằng câu hỏi “viết sao cho hay?”, mà đơn giản hơn: “Sản phẩm này đang giúp ai, trong chuyện gì?” Khi mình biết rõ nó đang giúp ai, thì mình sẽ biết nên viết cho ai, và viết tới đâu là vừa đủ. Còn nếu không rõ, thì dù viết đúng công dụng "chung chung", bài vẫn dễ bị trôi. Không sai, nhưng cũng không chạm chính xác vào ai cả. Mỗi sản phẩm có nhiều kiểu người dùng – không chỉ một Thường thì ai cũng có trong đầu một hình dung chung về 1 tệp khách hàng rộng Nhưng thật ra, trong nhóm đó lại có nhiều kiểu người nhỏ hơn, với nhu cầu và hoàn cảnh khác nhau. Ví dụ như cùng là dầu gội thiên nhiên: • Có người chọn vì tóc rụng nhiều • Có người vì da đầu nhạy cảm • Có mẹ sau sinh chỉ dám dùng đồ lành tính • Có người thì đơn giản là vì họ thích những thứ không mùi, không nhiều hoá chất công nghiệp Nếu mình chỉ viết một kiểu bà...

Phân tích những đoạn thơ trong bài Việt Bắc của Tố Hữu

 Phân tích những đoạn thơ trong bài Việt Bắc của Tố Hữu

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”




Hướng dẫn cách làm MỞ BÀI


C1: Đi từ đề tài Việt Bắc>> đến bài thơ “Việt Bắc”>> đến đoạn thơ
C2: Thành tựu của thơ ca chống Pháp> Bài thơ “Việt Bắc”> đến đoạn thơ
C3. Đi từ tác gia Tố Hữu>> Việt Bắc>> đến đoạn thơ





Hướng dẫn cách viết THÂN BÀI


1. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ TÁC PHẨM

- Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, quê ở Thừa Thiên Huế
- Ông là lá cờ đầu của nền thi ca cách mạng Việt Nam, nhà thơ trữ tình chính trị xuất sắc của dân tộc thế kỷ XX
- Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Tố Hữu để lại 7 tập thơ tương ứng với 5 chặng phát triển của cách mạng Việt Nam: “Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”, “Một tiếng đờn”, “Ta với ta”
- Qua 7 tập thơ của Tố Hữu, người đọc không chỉ thấy sự phát triển của cách mạng Việt Nam mà còn thấy được sự phát triển trong phong cách, quan điểm sáng tác của ông
- Dù sáng tác ở tập thơ nào thì thơ Tố Hữu cũng hấp dẫn bạn đọc ở những đặc điểm sau: Nhà thơ trữ tình chính trị, khuynh hướng sử thi cảm hứng lãng mạn, giọng điệu tâm tình ngọt ngào thương mến, đậm đà tính dân tộc.
- “Việt Bắc” là bài thơ tiêu biểu cho khuynh hướng tâm tình hóa một sự kiện chính trị trong thơ Tố Hữu. Đây cũng là thành tựu của thơ ca chống Pháp
- Bài thơ ra đời gắn với sự kiện lịch sử dân tộc. Tháng 5/1954 chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, tháng 7/1954 hiệp định Ginevo được kí kết, tháng 10/1954 cơ quan trung ương Đảng rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản thủ đô.
- Với lối xưng hô mình – ta quen thuộc trong dân ca giao duyên, Tố Hữu đã khiến một bản hùng ca cách mạng thành một bản tình ca. Xuyên suốt bài thơ là nỗi nhớ giữa người Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến. Qua đó Tố Hữu ngợi ca thời kỳ gian khổ nhưng hào hùng tại chiến khu Việt Bắc – thời đại chồng Pháp. Đồng thời nhà thơ ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của nhân dân, đặc biệt là lối sống nghĩa tỉnh, thủy chung…

2. PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ

- GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT

+Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ “Việt Bắc” là tình cảm nhớ thương giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến trong giờ phút chia li. Nỗi nhớ thương đó đã được Tố Hữu thể hiện bằng hình thức đối đáp mình - ta quen thuộc trong dân ca giao duyên và theo thể thơ lục bát dân tộc. Nhờ thế mà bản hùng ca về mười lăm năm cách mạng và kháng chiến bỗng có dáng dấp của một khúc tình ca.

+ Đoạn thơ trên là lời của người cán bộ kháng chiến. Trước những khắc khoải, day dứt của người ở lại, người về đã lên tiếng trả lời với mong muốn giải tỏa những ẩn ức, những băn khoăn của người Việt Bắc. Đoạn thơ đã đáp ứng một cách tuyệt vời những nguyên tắc trong hội thoại. Ở phần trên người Việt Bắc băn khoăn trăn trở điều gì thì trong những câu thơ này người cán bộ kháng chiến hồi đáp đầy đủ, chân thành. Người cán bộ kháng chiến khẳng định tình cảm thủy chung nghĩa tình và nỗi nhớ da diết đối với Việt Bắc.

- PHÂN TÍCH CỤ THỂ

+ Chiến tranh kết thúc, những người cán bộ kháng chiến rời xa Việt Bắc trở về thủ đô. Nhưng Việt Bắc mãi là miền nhớ, miền kí ức, miền kỉ niệm trong tâm tư tình cảm của những người về xuôi. Với Việt Bắc, những người cán bộ kháng chiến luôn thủy chung, nghĩa tình:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”

>>Người cán bộ kháng chiến xưng “ta” và gọi người Việt Bắc là “mình”. Đây là lối xưng hô quen thuộc trong dân ca giao duyên, ca dao tình yêu để thể hiện tình cảm lứa đôi, hoặc tình nghĩa vợ chồng. Điều đó cho thấy người cán bộ kháng chiến trân quý người Việt Bắc và trân trọng mối quan hệ này.
>>Hơn nữa ở câu thơ đầu, từ “mình”, “ta”, “với” được điệp lại hai lần kết hợp với sự hoán đổi vị trí cho thấy sự quấn quýt giữa “ta” và “mình”, cho thấy tình cảm sâu nặng nghĩa tình giữa người đi và kẻ ở.

>>Câu thơ “Lòng ta sau trước mặn mà, đinh ninh” như một lời thề, một lời khẳng định về tình cảm thủy chung, nghĩa tình của người cán bộ kháng chiến với Việt Bắc. Hai từ láy “mặn mà”, “đinh ninh” diễn tả cụ thể tình cảm sâu nặng đó. “Mặn mà” gợi tình cảm đong đầy, sâu đậm. Còn “đinh ninh” lại diễn tả tình cảm thường trực, da diết.

>>Hai câu thơ “Mình đi, mình lại nhớ mình/ Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu” thể hiện rõ tiếng nói đồng vọng tri âm của những tâm hồn tri kỉ. Nếu ở đoạn thơ trước, người ở lại băn khoăn: “Mình đi, mình có nhớ mình” thì trong đoạn thơ này người về đã khẳng định một cách chắc chắn: “Mình đi, mình lại nhớ mình”. Câu hỏi đã hàm chứa bao ý tứ thâm trầm sâu sắc và lời đáp cũng lấp lánh đa nghĩa. Trong câu thơ “Mình đi mình lại nhớ mình” từ “mình” được điệp lại ba lần. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai chỉ người cán bộ kháng chiến. Từ “mình” thứ ba có thể dùng để chỉ người Việt Bắc, cũng có thể hiểu là người cán bộ kháng chiến. Nếu hiểu từ “mình” thứ ba là người Việt Bắc thì câu thơ có nghĩa là: người cán bộ kháng chiến xa Việt Bắc rồi luôn nhớ đến Việt Bắc. Còn nếu từ “mình” thứ ba là từ chỉ người cán bộ kháng chiến thì câu thơ lại được hiểu là: người cán bộ kháng chiến xa Việt Bắc rồi vẫn nhớ đến chính mình của một thời đã qua. Mà nhớ đến chính mình cũng là nhớ đến Việt Bắc. Nhớ Việt Bắc cũng là nhớ bản thân mình trong những ngày gian khổ. Điều ấy thật hiển nhiên và mang tính quy luật. Dù hiểu theo cách nào thì câu thơ cũng là lời khẳng định chắc chắn: không bao giờ quên Việt Bắc, không bao giờ quên thủ đô kháng chiến, quê hương cách mạng, thủ đô gió ngàn.

Mặt khác chỉ bằng việc thay đi một chữ “có” bằng chữ “lại”, người về đã giải tỏa được niềm day dứt của người ở lại. Từ “lại” cho thấy tình cảm của người cán bộ kháng chiến dành cho Việt Bắc đã có, đang có và sẽ mãi đong đầy. Dù người cán bộ kháng chiến đã xa Việt Bắc nhưng tâm hồn, tình cảm thì vẫn neo đậu nơi núi rừng Việt Bắc... Hơn nữa nếu ở trên người cán bộ kháng chiến xưng “ta” thì trong câu thơ này người về lại xưng là “mình”. Dù người đi vẫn gọi người ở lại là “mình” nhưng sự thay đổi cách xưng hô giữa “ta” và “mình” cho thấy ta với mình tuy hai mà là một, khăng khít, nghĩa tình.
>>Nếu người ở lại còn hồ nghi: “Mình về mình có nhớ không - Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?” thì người về đã dứt khoát khẳng định: “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Làm sao có thể đo đếm được lưu lượng của nước trong nguồn cũng như tính đếm được tình nghĩa của người về với người Việt Bắc. Tình nghĩa của người về xuôi với Việt Bắc cũng bao la, vô tận như nước nguồn trong núi không bao giờ vơi cạn. Biện pháp so sánh đã diễn tả đặc sắc tình cảm thủy chung, nghĩa tình của người về với người ở lại.

- Sau khi giải đáp những băn khoăn, khúc mắc của người ở lại, người về đã bộc bạch niềm thương, nỗi nhớ thiết tha của mình với người Việt Bắc. Nỗi nhớ nồng thắm đã làm nên cả một thế giới thiên nhiên thơ mộng, trữ tình với quê hương cách mạng cùng với những con người Việt Bắc đáng quý, đáng yêu. Điều đáng chú ý là không nỗi nhớ nào về Việt Bắc lại thiếu hình ảnh đẹp về con người và không nỗi nhớ nào về con người Việt Bắc lại không có hình ảnh núi rừng nơi quê hương cách mạng. Tất cả đều xuất phát từ một lẽ giản đơn: người Việt Bắc sống hài hòa với thiên nhiên và người cán bộ kháng chiến lại chan hòa với người Việt Bắc. Đoạn thơ đẹp như một khúc hát đồng quê hiền hòa, trong đó mỗi cảnh, mỗi người, mỗi thời khắc của chiến khu đã in sâu trong tâm khảm của người về với những nét đẹp lung linh, kỳ diệu :

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”

>> Đó là nỗi nhớ nồng nàn chẳng khác nào nỗi nhớ người yêu: “Nhớ gì như nhớ người yêu”. “Nhớ gì như nhớ người yêu” là biện pháp so sánh độc đáo, đặc sắc. Tình yêu là một tình cảm mãnh liệt. Nỗi nhớ trong tình yêu cũng thật khắc khoải, da diết, đau đáu, bồn chồn. Ca dao đã từng viết:

“Nhớ ai bổi hồi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Hay “Đêm nằm lưng chẳng xuống giường/ Mong trời mau sáng ra đường gặp anh.”

>> Vậy mà Tố Hữu đã so sánh nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến dành cho Việt Bắc như nỗi nhớ của những người yêu nhau. Từ đó cho thấy tâm trạng bồn chồn nhớ nhung khắc khoải khi nhớ về Việt Bắc. Câu thơ được coi là câu thể hiện cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ.

>>Nhớ đến Việt Bắc là nhớ đến những bản làng chìm trong khói trong sương, những đêm trăng hò hẹn, những hoàng hôn nắng xế, những bếp lửa nhà sàn và bóng dáng người thương: “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương/ Nhớ từng bản khói cùng sương/ Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”. Tất cả đều hết sức cụ thể. Bởi lẽ những cảnh, những việc ở Việt Bắc đã thành nếp, choáng hết tâm tư, tình cảm của người về xuôi.

>>Nhớ đến Việt Bắc là nhớ đến những địa danh đặc trưng, tiêu biểu của Việt Bắc: “Nhớ từng rừng nứa bờ tre/ Ngòi Thia, sông Đáy, suối lê vơi đầy”. Hai câu thơ có sự kết hợp giữa danh từ chung và danh từ riêng cùng phép liệt kê đã tái hiện một cách sinh động không gian núi rừng Việt Bắc. Hai chữ “vơi đầy” ở cuối câu thơ đã nhấn mạnh tình cảm đong đầy, chan chứa của người cán bộ kháng chiến với quê hương cách mạng.

>>Nhớ đến Việt Bắc, người cán bộ kháng chiến còn nhớ đến nghĩa tình cách mạng: “Ta đi ta nhớ những ngày/ Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi/ Thương nhau, chia củ sắn lùi/ Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.” “Đắng cay” là những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn, mất mát của chiến tranh. “Ngọt bùi” cho thấy những thành quả cách mạng, những yêu thương đùm bọc, nghĩa tình mà Việt Bắc dành cho cách mạng. Những người dân Việt Bắc tảo tần, lam lũ nhưng tình nghĩa của họ đối với cách mạng thật sâu nặng. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì, người Việt Bắc đã sẻ chia với người cán bộ kháng chiến, nuôi dưỡng, che giấu cách mạng. Thực tế đã chứng minh cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi không chỉ ở lực lượng bộ đội chủ lực mà còn là sự chung sức của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Mỗi người tùy giới tính, độ tuổi bằng những việc làm thiết thực đã thể hiện tình yêu của mình với cách mạng. Đặc biệt là những người dân Việt Bắc – những người sống gần cách mạng nhất, gần những người cán bộ nhất. Họ chia sẻ với những người cán bộ mọi sản vật của quê hương mình. Cuộc sống của họ dẫu muôn vàn khó khăn thiếu thốn nhưng tình cảm của họ với cách mạng thì sắt son nghĩa tình. Qua nỗi nhớ đó người đọc còn thấy được nỗi xúc động và lòng biết ơn của người về xuôi với người Việt Bắc.
>>Trung tâm của nỗi nhớ đó là hình ảnh những người mẹ Việt Bắc tần tảo, lam lũ, chịu thương, chịu khó: “ Nhớ người mẹ nắng cháy lưng/ Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”. Đó là những người mẹ giỏi việc nước đảm việc nhà. Những người mẹ nuôi con nhỏ nhưng không sao nhãng, không quên trách nhiệm công dân với đất nước. Họ vẫn tảo tần, cần mẫn, vượt qua khó khăn sản xuất lương thực, thực phẩm cung cấp cho tiền tuyến. Trong hai chữ “cháy lưng” ta như thấy bỏng rát một niềm thương cảm, xót xa cho bao nỗi nhọc nhằn, cơ cực của bà mẹ. Không thực sự yêu thương gắn bó với người dân Việt Bắc có lẽ người về không thể cảm nhận một cách sâu sắc và thâm thúy nỗi nhọc nhằn của những người lao động Việt Bắc.
>> Người cán bộ kháng chiến không chỉ nhớ về thiên nhiên, nhớ về nghĩa tình cách mạng, nhớ về những người dân Việt Bắc mà còn nhớ đến những tháng ngày làm việc tuy nghèo khó, thiếu thốn nhưng con người vẫn lạc quan, vui vẻ; nhớ đến những lớp bình dân học vụ thấm đượm tình quân dân; nhớ đến âm thanh quen thuộc thân thương của Việt Bắc: “Nhớ sao lớp học i tờ/ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan/ Nhớ sao ngày tháng cơ quan/ Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo/ Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều/ Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

KHÁI QUÁT NÂNG CAO

- Trong đoạn thơ này “mình” với “ta” cũng giao hòa quấn quýt không thể tách rời, góp phần tạo ấn tượng “mình” với “ta” tuy hai mà một, đồng thời cũng góp phần tạo ra giọng thơ tâm tình , ngọt ngào rất mực truyền cảm.

- Điệp ngữ “nhớ từng”, “nhớ sao” lặp đi lặp lại khắc sâu thêm nỗi nhớ và làm sống dậy cả một thế giới riêng của Việt Bắc với không gian, thời gian, hình ảnh, màu sắc và phong vị riêng không thể trộn lẫn với bất kỳ miền quê nào khác. Đó là những bản làng chìm trong khói trong sương, những đêm trăng hò hẹn, những hoàng hôn nắng xế, những rừng nứa bờ tre, những tiếng mõ rừng chiều, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê nin và cả những người dân Việt Bắc lam lũ, nghèo khó mà thủy chúng, nghĩa tình với cách mạng. Ta có cảm tưởng như được hòa nhập vào thế giới thiên nhiên cũng như vào cuộc sống của người dân Việt Bắc.

- Như vậy với thể thơ lục bát; giọng thơ uyển chuyển nhịp nhàng; ngôn ngữ giản dị, linh hoạt; hình ảnh chân thực giàu sức gợi kết hợp với việc sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như điệp, đối, so sánh, liệt kê, Tố Hữu đã thể hiện nỗi nhớ da diết của người cán bộ kháng chiến với người dân Việt Bắc. Từ đó, nhà thơ cho thấy tình cảm thủy chung, son sắt của họ với Việt Bắc.

Văn mẫu KẾT BÀI

- Khẳng định lại nội dung đoạn thơ: nỗi nhớ da diết; lối sống thủy chung, nghĩa tình.
- Chiến tranh đã lùi xa nhưng những thông điệp mà nhà thơ Tố Hữu gửi gắm qua “Việt Bắc” nói chung, qua đoạn thơ vẫn còn mãi. >>Chúng ta hiểu hơn về một thời kỳ gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc – thời đại chống Pháp, hiểu hơn về tình cảm lớn của thời đại cách mạng – tình quân dân; hiểu hơn về thế hệ cha anh đi trước – những con người sinh ra và lớn lên trong chiến tranh thiếu thốn, khó khăn nhưng sáng ngời phẩm chất thủy chung, nghĩa tình…

Thông qua những nội dung Phân tích những đoạn thơ trong bài Việt Bắc ở trên hy vọng cung cấp cho các em nhiều kiến thức bổ ích để thêm vào hành trang văn chương của mình. Chúc các em thành công.

Nhận xét